Chuyên tư vấn pháp luật, giải quyết ly hôn, tham gia tố tụng. Dịch vụ đặc biệt: Chuyên án Phúc thẩm, Giám đốc thẩm, Tái thẩm bản án Dân sự, Hình sự, Lao động, Hành chính,... Hotline: 0989 953 716 (Luật sư Tòng).

Bộ luật Dân sự năm 2015, ngày 24 tháng 11 năm 2015

3140 Lượt xem

NHỮNG NỘI DUNG CƠ BẢN CỦA BỘ LUẬT DÂN SỰ NĂM 2015

 

I. SỰ CẦN THIẾT BAN HÀNH BỘ LUẬT DÂN SỰ NĂM 2015:

 

1. BLDS năm 2005 (BLDS năm 2005) được Quốc hội khóa XI thông qua ngày 14/6/2005 trên cơ sở kế thừa truyền thống của pháp luật dân sự Việt Nam, phát huy thành tựu của BLDS năm 1995 và kinh nghiệm gần 20 năm đổi mới, xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng XHCN và hội nhập quốc tế. Sau hơn 9 năm thi hành, BLDS cơ bản đã có tác động tích cực đến sự phát triển kinh tế - xã hội của đất nước cũng như đối với việc hoàn thiện hệ thống pháp luật điều chỉnh các quan hệ xã hội được hình thành trên cơ sở bình đẳng, tự do ý chí, độc lập về tài sản và tự chịu trách nhiệm của chủ thể trong các lĩnh vực dân sự, hôn nhân và gia đình, kinh doanh, thương mại, lao động v.v.. (sau đây gọi chung là quan hệ dân sự), thể hiện trên một số điểm lớn như sau:

Thứ nhất, BLDS đã cụ thể hóa các quy định của Hiến pháp năm 1992 (sửa đổi, bổ sung năm 2001) về tôn trọng, bảo vệ quyền công dân trong lĩnh vực dân sự; về thể chế kinh tế thị trường định hướng XHCN thông qua việc ghi nhận sự tồn tại của nhiều hình thức sở hữu trong nền kinh tế ở nước ta, sự đa dạng và đồng bộ của các biện pháp bảo vệ quyền sở hữu; hoàn thiện thêm một bước các quy định về quyền của người không phải là chủ sở hữu; ghi nhận sự bình đẳng giữa các loại hình tổ chức sản xuất, kinh doanh thuộc mọi thành phần kinh tế;

Thứ hai, BLDS đã góp phần thúc đẩy sự hình thành, phát triển của quan hệ thị trường thông qua việc ghi nhận nguyên tắc tự do hợp đồng; hạn chế sự can thiệp quá mức của cơ quan công quyền vào quá trình hình thành, tồn tại và vận động của các quan hệ hàng hóa - tiền tệ; tạo cơ chế pháp lý để thực hiện tinh thần của Hiến pháp 1992 (sửa đổi, bổ sung năm 2001), theo đó, mọi cá nhân, tổ chức được làm những gì mà pháp luật không cấm, với điều kiện các việc làm đó không vi phạm lợi ích công cộng, đạo đức xã hội; ghi nhận nhiều biện pháp để bảo đảm sự an toàn về mặt pháp lý cho các chủ thể trong các quan hệ dân sự nói chung và kinh doanh nói riêng. Nhờ có các quy định có tính chất nền tảng này mà về cơ bản, các quan hệ thị trường ở nước ta trong thời gian qua đã từng bước hình thành, phát triển;

Thứ ba, nhiều quy định trong BLDS đã có tính tương thích với thông lệ quốc tế, góp phần thúc đẩy giao lưu dân sự, thương mại giữa Việt Nam với các nước trên thế giới, góp phần thực hiện thắng lợi chủ trương của Đảng và Nhà nước ta về hội nhập quốc tế;

Thứ tư, đối với hệ thống pháp luật điều chỉnh các quan hệ dân sự, BLDS bước đầu đã thể hiện được vai trò là luật chung, luật nền. Có được vai trò này là nhờ các quy định của BLDS đã ghi nhận được những nguyên tắc và quy định cơ bản của việc điều chỉnh pháp luật đối với quan hệ dân sự; đồng thời, đã bao quát được tương đối đầy đủ các vấn đề của đời sống dân sự. Nhờ vậy, BLDS đã góp phần vào việc khắc phục được một bước những mâu thuẫn, chồng chéo của hệ thống pháp luật về sở hữu, nghĩa vụ và hợp đồng, góp phần bảo đảm tính thống nhất, đồng bộ của hệ thống pháp luật nói chung và pháp luật dân sự nói riêng.

2. Tuy nhiên, bước sang giai đoạn phát triển mới của đất nước, trước yêu cầu thể chế hóa Nghị quyết Đại hội Đảng lần thứ XI, Nghị quyết số 48 - NQ/TW, Nghị quyết số 49-NQ/TW và đặc biệt là yêu cầu về công nhận, tôn trọng, bảo vệ và bảo đảm quyền con người, quyền công dân, về hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng XHCN và hội nhập quốc tế được ghi nhận trong Hiến pháp năm 2013 thì BLDS hiện hành đã bộc lộ nhiều hạn chế, bất cập, nổi bật là các vấn đề sau đây:

Thứ nhất, một trong những yêu cầu của Nhà nước pháp quyền, đặc biệt sau khi Hiến pháp năm 2013 được ban hành là Nhà nước phải có cơ chế pháp lý để công nhận, tôn trọng, bảo vệ và bảo đảm tốt hơn quyền con người, quyền công dân về dân sự. Tuy nhiên, một số quy định của BLDS hiện hành chưa đáp ứng được yêu cầu này, cụ thể như: (1) chưa bảo đảm nguyên tắc quyền dân sự chỉ có thể bị hạn chế bởi luật trong những trường hợp đặc biệt như Hiến pháp năm 2013 đã ghi nhận; (2) nhiều quy định về chủ thể, giao dịch, đại diện, nghĩa vụ và hợp đồng, thừa kế còn bất hợp lý, thiếu tính khả thi; (3) chưa tạo được cơ chế pháp lý hữu hiệu để bảo vệ quyền, lợi ích của bên thứ ba ngay tình, của bên thiện chí, bên yếu thế trong quan hệ dân sự… Hạn chế này lại càng biểu hiện rõ nét trong bối cảnh hiện nay khi mà Hiến pháp năm 2013 đã đặt ra nhiều yêu cầu mới trong việc bảo vệ và bảo đảm thực hiện quyền con người, quyền công dân ở nước ta;

Thứ hai, nhiều quy định của BLDS còn chưa thực sự tạo điều kiện thuận lợi cho công cuộc xây dựng và phát triển của nền kinh tế thị trường định hướng XHCN, cụ thể như: (1) BLDS hiện hành giành rất nhiều quy định về quyền sở hữu, trong khi đó lại có rất ít quy định về các quyền khác đối với tài sản (quyền của người không phải là chủ sở hữu tài sản). Thực trạng này đã dẫn đến hậu quả là, pháp luật dân sự Việt Nam nói chung và BLDS nói riêng chưa tạo cơ sở pháp lý đầy đủ và thuận lợi cho việc khai thác, sử dụng một cách tiết kiệm và hiệu quả các tài sản và các nguồn tài nguyên thiên nhiên khác của đất nước; (2) vấn đề bảo vệ quyền sở hữu luôn được coi là một trong những nhiệm vụ quan trọng hàng đầu của bất cứ BLDS nào, trong đó có BLDS nước ta. Tuy nhiên, BLDS hiện hành chưa ghi nhận đầy đủ các cơ chế pháp lý để thực hiện nhiệm vụ này, ví dụ như chưa ghi nhận được nguyên tắc quyền của tất cả các chủ sở hữu, không phân biệt hình thức sở hữu, thành phần kinh tế đều được pháp luật công nhận và bảo vệ như nhau; (3) một số quy định của BLDS còn gò bó, không phù hợp với tính năng động của nền kinh tế thị trường, do đó đã ảnh hưởng không tốt đến chất lượng và hiệu quả hoạt động sản xuất, kinh doanh của các doanh nghiệp. Ví dụ, theo quy định hiện hành về điều kiện có hiệu lực của giao dịch thì các giao dịch dân sự có thể bị tuyên bố vô hiệu do nhiều lý do khác nhau, do đó, không đảm bảo tính ổn định của quan hệ hợp đồng như một yêu cầu tất yếu của nền kinh tế thị trường. Quy định hiện hành của BLDS về việc một pháp nhân chỉ có thể có một đại diện theo pháp luật và chưa có quy định về việc pháp nhân có thể là đại diện theo ủy quyền là không phù hợp với nhu cầu rất tự nhiên, chính đáng của các doanh nghiệp về đại diện, chưa bảo đảm tính chuyên nghiệp và tính nhanh nhạy trong quản lý, điều hành sản xuất kinh doanh, nhất là trong điều kiện hiện nay khi mà các doanh nghiệp Việt Nam ngày càng có nhu cầu và khả năng mở rộng quy mô, địa bàn hoạt động của mình và việc tham gia tố tụng... Những hạn chế này cần phải được khắc phục sớm để tạo điều kiện cho các doanh nghiệp thực hiện hoạt động sản xuất, kinh doanh một cách thuận lợi, hiệu quả, góp phần xây dựng thành công nền kinh tế thị trường định hướng XHCN ở nước ta;

Thứ ba, trong hệ thống pháp luật điều chỉnh các quan hệ dân sự, BLDS hiện hành còn chưa thể hiện được một cách đầy đủ vị trí, vai trò của mình với tư cách là bộ luật nền, luật chung, nhất là trong việc thực hiện ba chức năng: (1) quy định những vấn đề cơ bản nhất, chung nhất có liên quan đến tất cả các lĩnh vực thuộc đời sống dân sự; (2) định hướng cho việc xây dựng các văn bản pháp luật điều chỉnh các quan hệ dân sự đặc thù, và (3) khi các luật chuyên ngành không có quy định về một quan hệ dân sự thì quy định của BLDS được áp dụng để điều chỉnh. Bất cập này càng được thể hiện rõ hơn khi mà trong điều kiện hiện nay, bên cạnh BLDS, đã và đang tồn tại ngày càng nhiều đạo luật điều chỉnh các lĩnh vực dân sự đặc thù, như Luật doanh nghiệp, Luật đầu tư, Luật đất đai, Luật nhà ở, Luật kinh doanh bất động sản, Luật thương mại, Luật hôn nhân và gia đình, Luật sở hữu trí tuệ, Bộ luật lao động,… Kết quả là, BLDS nói riêng và hệ thống pháp luật dân sự nói chung còn chưa đáp ứng được đầy đủ các yêu cầu về tính ổn định, tính khái quát, tính hệ thống, tính dự báo và tính minh bạch trong hệ thống pháp luật của Nhà nước pháp quyền;

Thứ tư, cấu trúc của BLDS có điểm chưa hợp lý, chưa bảo đảm tính đồng bộ, tính hệ thống, tính logic giữa các phần và chế định của Bộ luật. Nhiều quy định được lặp lại giữa các phần và các chế định; một số quy định không bảo đảm tính rõ ràng, tạo ra các cách hiểu khác nhau, gây khó khăn cho quá trình áp dụng pháp luật dân sự trong thực tiễn.

Những hạn chế, bất cập nêu trên đã ảnh hưởng không nhỏ đến hiệu lực và hiệu quả của BLDS nói riêng, pháp luật dân sự nói chung; chưa thực sự tạo môi trường pháp lý thuận lợi cho sự phát triển kinh tế - xã hội của đất nước cũng như cho việc công nhận, tôn trọng, bảo vệ và bảo đảm các quyền dân sự của người dân. Do đó, việc xây dựng BLDS thay thế cho BLDS năm 2005 là rất cần thiết.

 

II. QUAN ĐIỂM CHỈ ĐẠO XÂY DỰNG BỘ LUẬT DÂN SỰ NĂM 2015:

 

Việc xây dựng BLDS được thực hiện trên cơ sở quán triệt những quan điểm chỉ đạo sau đây:

Thứ nhất, thể chế hóa đầy đủ, đồng thời tăng cường các biện pháp để công nhận, tôn trọng, bảo vệ và bảo đảm tốt hơn quyền con người, quyền công dân trong các lĩnh vực của đời sống dân sự, cũng như những tư tưởng, nguyên tắc cơ bản của nền kinh tế thị trường định hướng XHCN về quyền sở hữu, quyền tự do kinh doanh, quyền bình đẳng giữa các chủ thể thuộc mọi hình thức sở hữu và thành phần kinh tế đã được ghi nhận trong các nghị quyết Đảng, đặc biệt là trong Hiến pháp năm 2013.

Thứ hai, sửa đổi, bổ sung các quy định còn bất cập, hạn chế trong thực tiễn thi hành để bảo đảm BLDS thực sự phát huy được ba vai trò cơ bản, đó là: (i) Tạo cơ chế pháp lỹ hữu hiệu để công nhận, tôn trọng, bảo vệ và bảo đảm quyền dân sự của cá nhân, pháp nhân, đặc biệt là trong việc bảo vệ quyền, lợi ích của bên yếu thế, bên thiện chí trong quan hệ dân sự; hạn chế đến mức tối đa sự can thiệp của cơ quan công quyền vào việc xác lập, thay đổi, chấm dứt các quan hệ dân sự; (ii) Tạo điều kiện thuận lợi để thúc đẩy sản xuất kinh doanh, sử dụng có hiệu quả mọi nguồn lực xã hội, bảo đảm sự thông thoáng, ổn định trong giao lưu dân sự, góp phần phát triển nền kinh tế thị trường định hướng XHCN, phục vụ hội nhập quốc tế;

Thứ ba, xây dựng BLDS thành bộ luật nền, có vị trí, vai trò là luật chung của hệ thống pháp luật điều chỉnh các quan hệ được hình thành trên cơ sở bình đẳng, tự do ý chí, độc lập về tài sản và tự chịu trách nhiệm; có tính khái quát, tính dự báo và tính khả thi để một mặt, bảo đảm tính ổn định của Bộ luật, mặt khác, đáp ứng được kịp thời sự phát triển thường xuyên, liên tục của các quan hệ xã hội thuộc phạm vi điều chỉnh của pháp luật dân sự;

Thứ tư, bảo đảm tính kế thừa và phát triển các quy định còn phù hợp với thực tiễn của pháp luật dân sự, cũng như các giá trị văn hóa, tập quán, truyền thống đạo đức tốt đẹp của Việt Nam; có sự tham khảo kinh nghiệm xây dựng BLDS của một số nước, nhất là các nước có truyền thống pháp luật tương đồng với Việt Nam.

 

III. BỐ CỤC CỦA BỘ LUẬT DÂN SỰ NĂM 2015:

 

BLDS số 91/2015/QH13 được Quốc hội thông qua ngày 24/11/2015 (sau đây gọi là BLDS năm 2015) có 689 điều, được bố cục thành 6 phần, 27 chương với những nội dung cơ bản sau đây:

- Phần thứ nhất. Quy định chung, bao gồm 10 chương, 157 điều (từ Điều 1 đến Điều 157), quy định về những quy định chung; xác lập, thực hiện và bảo vệ quyền dân sự; cá nhân; pháp nhân; Nhà nước Cộng hòa XHCN Việt Nam, cơ quan nhà nước ở trung ương, ở địa phương trong quan hệ dân sự; hộ gia đình, tổ hợp tác và tổ chức khác không có tư cách pháp nhân trong quan hệ dân sự; tài sản; giao dịch dân sự; đại diện; thời hạn và thời hiệu.

- Phần thứ hai. Quyền sở hữu và quyền khác đối với tài sản, bao gồm 4 chương, 116 điều (từ Điều 158 đến Điều 273), quy định nguyên tắc xác lập, thực hiện quyền sở hữu; quyền khác đối với tài sản; bảo vệ quyền sở hữu, quyền khác đối với tài sản; giới hạn quyền sở hữu, quyền khác đối với tài sản; chiếm hữu; quyền sở hữu; quyền khác đối với tài sản.

- Phần thứ ba. Nghĩa vụ và hợp đồng, bao gồm 7 chương, 335 điều (từ Điều 274 đến Điều 608), quy định những vấn đề chung về hợp đồng và nghĩa vụ trong giao kết hợp đồng; hợp đồng; một số hợp đồng thông dụng; hứa thưởng, thi có giải; thực hiện công việc không có ủy quyền; nghĩa vụ hoàn trả do chiếm hữu, sử dụng tài sản được lợi về tài sản không có căn cứ pháp luật; trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng.

- Phần thứ tư. Thừa kế, bao gồm 4 chương, 54 điều (từ Điều 609 đến Điều 662), quy định những vấn đề chung về thừa kế; thừa kế theo di chúc; thừa kế theo pháp luật; thanh toán và phân chia di sản.

- Phần thứ năm. Pháp luật áp dụng đối với quan hệ dân sự có yếu tố nước ngoài, bao gồm 3 chương, 25 điều (từ Điều 663 đến Điều 687), quy định những vấn đề chung; pháp luật áp dụng đối với cá nhân, pháp nhân và pháp luật áp dụng đối với quan hệ tài sản, quan hệ nhân thân.

- Phần thứ sáu. Điều khoản thi hành, gồm 2 điều: Điều 688 và Điều 689, quy định về hiệu lực thi hành và điều khoản chuyển tiếp.

 

IV. MỘT SỐ NỘI DUNG CƠ BẢN CỦA BỘ LUẬT DÂN SỰ NĂM 2015:

 

Với mục tiêu là nhằm xây dựng BLDS thực sự trở thành luật chung của hệ thống pháp luật điều chỉnh các quan hệ dân sự; ghi nhận và bảo vệ tốt hơn các quyền của cá nhân, pháp nhân trong quan hệ dân sự; góp phần hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng XHCN, phục vụ hội nhập quốc tế, ổn định môi trường pháp lý cho sự phát triển kinh tế - xã hội sau khi Hiến pháp năm 2013 được ban hành, trên cơ sở kế thừa và phát huy pháp luật dân sự cũ, BLDS năm 2015 có những nội dung cơ bản sau:

1. Quy định Bộ luật dân sự là luật chung điều chỉnh các quan hệ được hình thành trên cơ sở bình đẳng, tự do ý chí, độc lập về tài sản và tự chịu trách nhiệm

1.1. Về nguyên tắc cơ bản của pháp luật dân sự

Trên cơ sở các nguyên tắc đã được xây dựng và áp dụng trong BLDS năm 2005 và các luật điều chỉnh trong lĩnh vực quan hệ dân sự cụ thể, BLDS năm 2015 quy định 5 nguyên tắc cơ bản của pháp luật dân sự, trong đó, nội dung các nguyên tắc là sự bao quát ngắn gọn có chọn lọc của các nguyên tắc đã được ghi nhận tại Chương II, phần thứ nhất của BLDS năm 2005, loại bỏ nguyên tắc tự hòa giải vì bản thân nguyên tắc tự do, tự nguyện cam kết, thỏa thuận đã bao hàm nội dung nguyên tắc này. Việc quy định như vậy là hoàn toàn hợp lý với định hướng xây dựng BLDS năm 2015 trở thành bộ luật chung, mang tính bao quát cao (chỉ ghi nhận những nguyên tắc cơ bản nhất điều chỉnh các quan hệ dân sự). Điều 3 BLDS năm 2015 quy định các nguyên tắc như sau: “1. Mọi cá nhân, pháp nhân đều bình đẳng, không được lấy bất kỳ lý do nào để phân biệt đối xử; được pháp luật bảo hộ như nhau về các quyền nhân thân và tài sản. 2. Cá nhân, pháp nhân xác lập, thực hiện, chấm dứt quyền, nghĩa vụ dân sự của mình trên cơ sở tự do, tự nguyện cam kết, thỏa thuận. Mọi cam kết, thỏa thuận không vi phạm điều cấm của luật, không trái đạo đức xã hội có hiệu lực thực hiện đối với các bên và phải được chủ thể khác tôn trọng. 3. Cá nhân, pháp nhân phải xác lập, thực hiện, chấm dứt quyền, nghĩa vụ dân sự của mình một cách thiện chí, trung thực. 4. Việc xác lập, thực hiện, chấm dứt quyền, nghĩa vụ dân sự không được xâm phạm đến lợi ích quốc gia, dân tộc, lợi ích công cộng, quyền và lợi ích hợp pháp của người khác. 5. Cá nhân, pháp nhân phải tự chịu trách nhiệm về việc không thực hiện hoặc thực hiện không đúng nghĩa vụ dân sự”.

Đây là những nguyên tắc cơ bản đã bao quát, định hướng tất cả các điều khoản, các chế định nằm trong BLDS, bảo đảm tính thống nhất, logic, đồng bộ của các luật khác trong việc điều chỉnh quan hệ dân sự thuộc các lĩnh vực dân sự cụ thể, mặt khác tạo điều kiện thuận lợi cho Tòa án khi cần giải thích một điều luật không rõ nghĩa hoặc có thể được hiểu theo nhiều nghĩa khác nhau mà không thể tìm thấy đáp án thích hợp ở chính điều luật đó hoặc ở chế định bao hàm điều luật đó thì cơ quan tài phán có thể viện dẫn các tập quán và các nguyên tắc này của BLDS để giải thích điều luật. Việc quán triệt các nguyên tắc này góp phần bảo đảm tất cả quyền dân sự của cá nhân, pháp nhân được Hiến pháp và pháp luật công nhận đều được tôn trọng, bảo vệ, bảo đảm thực hiện và chỉ có thể bị hạn chế theo quy định của luật trong trường hợp cần thiết vì lý do quốc phòng, an ninh quốc gia, trật tự, an toàn xã hội, đạo đức xã hội, sức khỏe của cộng đồng.

1.2. Về áp dụng Bộ luật dân sự

Tại Điều 4 BLDS năm 2015 về áp dụng BLDS đã một lần nữa khẳng định vị trí, vai trò của BLDS trong hệ thống pháp luật điều chỉnh các quan hệ dân sự, cụ thể Điều 4 quy định: “1. Bộ luật này là luật chung điều chỉnh các quan hệ dân sự. 2. Luật khác có liên quan điều chỉnh quan hệ dân sự trong các lĩnh vực cụ thể không được trái với các nguyên tắc cơ bản của pháp luật dân sự quy định tại Điều 3 của Bộ luật này. 3. Trường hợp luật khác có liên quan không quy định hoặc có quy định nhưng vi phạm khoản 2 Điều này thì quy định của Bộ luật này được áp dụng. 4. Trường hợp có sự khác nhau giữa quy định của Bộ luật này và điều ước quốc tế mà Cộng hòa XHCN Việt Nam là thành viên về cùng một vấn đề thì áp dụng quy định của điều ước quốc tế”.

Với quy định như trên, việc áp dụng pháp luật dân sự phải được thực hiện trên cơ sở tôn trọng các nguyên tắc cơ bản của pháp luật dân sự đã được ghi nhận trong BLDS, các chủ thể áp dụng pháp luật dân sự phải đồng thời có sự đối chiếu, so sánh giữa các quy định tại các đạo luật chuyên ngành điều chỉnh các lĩnh vực cụ thể với các nguyên tắc và quy định tại BLDS. Trường hợp có sự khác nhau giữa quy định của Bộ luật này và điều ước quốc tế mà Cộng hòa XHCN Việt Nam là thành viên về cùng một vấn đề thì áp dụng quy định của điều ước quốc tế.

1.3. Bổ sung các công cụ pháp lý giúp Tòa án có đủ căn cứ giải quyết các vụ việc dân sự

Một trong những điểm mới thể hiện rõ quyết tâm xây dựng BLDS trở thành luật chung điều chỉnh các quan hệ dân sự, đó là việc quy định cụ thể và bổ sung thêm căn cứ pháp lý là án lệ, lẽ công bằng giúp Tòa án có đủ căn cứ giải quyết các vụ việc dân sự, kể cả khi chưa có điều luật quy định để áp dụng thì áp dụng tập quán để giải quyết các vụ việc dân sự. Theo đó, Điều 5 và Điều 6 quy định như sau:

Điều 5. Áp dụng tập quán

1. Tập quán là quy tắc xử sự có nội dung rõ ràng để xác định quyền, nghĩa vụ của cá nhân, pháp nhân trong quan hệ dân sự cụ thể, được hình thành và lặp đi lặp lại nhiều lần trong một thời gian dài, được thừa nhận và áp dụng rộng rãi trong một vùng, miền, dân tộc, cộng đồng dân cư hoặc trong một lĩnh vực dân sự.

2. Trường hợp các bên không có thoả thuận và pháp luật không quy định thì có thể áp dụng tập quán nhưng tập quán áp dụng không được trái với các nguyên tắc cơ bản của pháp luật dân sự quy định tại Điều 3 của Bộ luật này.

Điều 6. Áp dụng tương tự pháp luật

1. Trường hợp phát sinh quan hệ thuộc phạm vi điều chỉnh của pháp luật dân sự mà các bên không có thoả thuận, pháp luật không có quy định và không có tập quán được áp dụng thì áp dụng quy định của pháp luật điều chỉnh quan hệ dân sự tương tự.

2. Trường hợp không thể áp dụng tương tự pháp luật theo quy định tại khoản 1 Điều này thì áp dụng các nguyên tắc cơ bản của pháp luật dân sự quy định tại Điều 3 của Bộ luật này, án lệ, lẽ công bằng”.

Quy định như trên được xuất phát từ thực tiễn thi hành pháp luật, trong đó, quy định của pháp luật dân sự nói chung và BLDS năm 2005 nói riêng còn nhiều khoảng trống, thiếu cụ thể hoặc chưa phản ánh được đầy đủ các quan hệ dân sự phát sinh trong đời sống kinh tế - xã hội. Điều đó đã gây ra không ít khó khăn cho Tòa án trong giải quyết các vụ việc dân sự. Mặt khác, theo quy định tại khoản 2 Điều 103 Hiến pháp năm 2013 quy định: “Thẩm phán, Hội thẩm xét xử độc lập và chỉ tuân theo pháp luật”, từ nguyên tắc hiến định này, trên thực tế, TAND thường từ chối giải quyết các vụ việc dân sự trong trường hợp không có quy định pháp luật điều chỉnh về vấn đề tranh chấp, lúc này quyền lợi, nghĩa vụ dân sự của các bên có liên quan, tranh chấp trở thành không có ai bảo vệ, can thiệp, giải quyết. Điều này dường như đang đi ngược lại với nguyên lý quyền, lợi ích hợp pháp của công dân được nhà nước bảo hộ. Do vậy, để đảm bảo đủ căn cứ pháp luật, bám sát thực tiễn trong giải quyết các vụ việc dân sự, cụ thể hóa nội dung và tinh thần của Hiến pháp năm 2013, BLDS năm 2015 đã quy định cụ thể và rõ ràng hơn về việc áp dụng tập quán, tương tự pháp luật, bổ sung quy định về việc Tòa án có thể áp dụng án lệ, lẽ công bằng trong giải quyết các vụ, việc dân sự, góp phần bảo vệ quyền dân sự của các chủ thể tham gia quan hệ dân sự, nâng cao vị thế, vai trò của cơ quan Tòa án đặc biệt là Thẩm phán trong giải quyết các vụ, việc dân sự. Với quy định như trên, Tòa án không được từ chối giải quyết vụ, việc dân sự vì lý do chưa có điều luật để áp dụng (đã được khẳng định và quy định cụ thể tại khoản 2 Điều 14 BLDS năm 2015).

2. Bộ luật sửa đổi, bổ sung nhiều quy định của Bộ luật dân sự năm 2005 để cụ thể hóa Hiến pháp năm 2013 về xây dựng, hoàn thiện hơn các cơ chế pháp lý công nhận, tôn trọng, bảo vệ và bảo đảm quyền con người, quyền công dân trong lĩnh vực dân sự

2.1. Bổ sung căn cứ pháp lý về xác lập, thực hiện và bảo vệ quyền dân sự

BLDS năm 2015 đã xây dựng một Chương riêng về xác lập, thực hiện và bảo vệ quyền dân sự, trong đó đã bổ sung thêm nhiều cơ chế pháp lý để bảo vệ quyền dân sự của các cá nhân, pháp nhân tham gia quan hệ dân sự, trong đó:

- Cá nhân, pháp nhân thực hiện quyền dân sự theo ý chí của mình, không được trái với quy định tại Điều 3 và Điều 10 của BLDS năm 2015. Việc cá nhân, pháp nhân không thực hiện quyền dân sự của mình không phải là căn cứ làm chấm dứt quyền, trừ trường hợp luật có quy định khác (Điều 9);

- Cá nhân, pháp nhân không được lạm dụng quyền dân sự của mình gây thiệt hại cho người khác, để vi phạm nghĩa vụ của mình hoặc thực hiện mục đích khác trái pháp luật. Đây là quy định nhằm cụ thể hóa Điều 15 và Điều 46 Hiến pháp năm 2013 và nguyên tắc tự do, tự nguyện cam kết, thỏa thuận trong pháp luật dân sự, theo đó, trường hợp cá nhân, pháp nhân vi phạm giới hạn này thì Tòa án hoặc cơ quan có thẩm quyền khác căn cứ vào tính chất, hậu quả của hành vi vi phạm mà có thể không bảo vệ một phần hoặc toàn bộ quyền của họ, buộc bồi thường nếu gây thiệt hại và có thể áp dụng chế tài khác do luật quy định (Điều 10);

- Khi quyền dân sự của cá nhân, pháp nhân bị xâm phạm thì chủ thể đó có thể lựa chọn áp dụng phương thức tự bảo vệ hoặc yêu cầu cơ quan, tổ chức có thẩm quyền thực hiện các biện pháp theo quy định của BLDS, luật khác có liên quan (Điều 11), trong đó:

+ Trường hợp cá nhân, pháp nhân lựa chọn phương thức tự bảo vệ quyền dân sự thì việc tự bảo vệ phải phù hợp với tính chất, mức độ xâm phạm đến quyền dân sự đó và không được trái với các nguyên tắc cơ bản của pháp luật dân sự (Điều 12).

+ Trường hợp quyền dân sự bị vi phạm mà có thiệt hại thì cá nhân, pháp nhân có quyền yêu cầu người có hành vi vi phạm bồi thường toàn bộ thiệt hại, trừ trường hợp có thỏa thuận khác hoặc luật có quy định khác (Điều 13).

+ Tòa án, cơ quan có thẩm quyền khác có trách nhiệm tôn trọng, bảo vệ quyền dân sự của cá nhân, pháp nhân. Trường hợp quyền dân sự bị xâm phạm hoặc có tranh chấp thì việc bảo vệ quyền được thực hiện theo pháp luật tố tụng tại Tòa án hoặc trọng tài. Việc bảo vệ quyền dân sự theo thủ tục hành chính được thực hiện trong những trường hợp luật định. Quyết định giải quyết vụ việc theo thủ tục hành chính có thể được xem xét lại tại Tòa án.

Tòa án không được từ chối yêu cầu giải quyết vụ, việc dân sự vì lý do chưa có điều luật để áp dụng; trong trường hợp này, quy định về áp dụng tập quán, tương tự pháp luật, nguyên tắc cơ bản của pháp luật dân sự và lẽ công bằng được áp dụng để xem xét, giải quyết (Điều 14). Đây là một trong những điểm mới được bổ sung trong BLDS năm 2015 nhằm tạo công cụ pháp lý bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của cá nhân, pháp nhân khi bị xâm phạm. Quy định này phù hợp với nội dung, tinh thần của Hiến pháp năm 2013 về công nhận, tôn trọng, bảo vệ và bảo đảm quyền con người, quyền công dân về trách nhiệm của Chính phủ, TAND trong việc bảo vệ quyền con người, quyền công dân (khoản 6 Điều 96, khoản 3 Điều 102 Hiến pháp năm 2013), theo đó “TAND có nhiệm vụ bảo vệ công lý, bảo vệ quyền con người, quyền công dân, bảo vệ chế độ XHCN, bảo vệ lợi ích của nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân”.

2.2. Tòa án chỉ được áp dụng thời hiệu khi giải quyết vụ việc dân sự trong trường hợp một bên hoặc các bên dân sự có yêu cầu

Thể chế hóa Nghị quyết Đại hội Đảng lần thứ XI, Nghị quyết số 49-NQ/TW và đặc biệt cụ thể hóa nội dung, tinh thần các điều 13, 14, 15, 16, 30, 102... của Hiến pháp năm 2013 về công nhận, tôn trọng và có cơ chế pháp lý đầy đủ, kịp thời để bảo vệ, bảo đảm thực hiện quyền dân sự, đồng thời để phù hợp với bản chất pháp lý của thời hiệu trong quan hệ dân sự, BLDS 2015 quy định về thời hiệu theo nguyên tắc cá nhân, pháp nhân phải yêu cầu tòa án, trọng tài giải quyết vụ, việc dân sự trong thời hạn luật định, hết thời hạn đó mà cá nhân, pháp nhân mới có yêu cầu thì sẽ làm phát sinh hậu quả pháp lý đối với chủ thể theo điều kiện do luật quy định. Trong đó, cá nhân, pháp nhân có quyền căn cứ vào thời hiệu để bảo vệ quyền dân sự, theo đó, khoản 2 Điều 149 BLDS năm 2015 quy định: “2. Tòa án chỉ áp dụng quy định về thời hiệu theo yêu cầu áp dụng thời hiệu của một bên hoặc các bên với điều kiện yêu cầu này phải được đưa ra trước khi Tòa án cấp sơ thẩm ra bản án, quyết định giải quyết vụ, việc. Người được hưởng lợi từ việc áp dụng thời hiệu có quyền từ chối áp dụng thời hiệu, trừ trường hợp việc từ chối đó nhằm mục đích trốn tránh thực hiện nghĩa vụ”.

Quy định như vậy là phù hợp với bản chất pháp lý của thời hiệu, tạo công cụ pháp lý tốt hơn để các chủ thể căn cứ vào đó mà bảo vệ các quyền dân sự của mình. Việc quy định thời hiệu khởi kiện như hiện hành tuy có tác dụng tạo thuận lợi cho Tòa án trong việc chứng minh, giải quyết vụ việc dân sự, đồng thời tạo căn cứ để Tòa án ra quyết định đình chỉ giải quyết vụ việc dân sự mà không phải đưa ra phán quyết cụ thể để xác định quyền lợi, nghĩa vụ của các bên trong quan hệ, nhưng lại có hạn chế là chưa giúp giải quyết được một cách triệt để các tranh chấp phát sinh. Bên cạnh đó, khi không được Nhà nước bảo vệ quyền lợi thì các chủ thể có thể sử dụng những biện pháp hành xử ngoài vòng pháp luật, gây mất trật tự, an toàn xã hội. Mặt khác, quy định như vậy là để hạn chế tình trạng Tòa án có thể căn cứ vào thời hiệu mà từ chối yêu cầu giải quyết vụ việc, góp phần cụ thể hóa và triển khai thi hành khoản 3 Điều 102 Hiến pháp năm 2013: “TAND có nhiệm vụ bảo vệ công lý, bảo vệ quyền con người, quyền công dân, bảo vệ chế độ XHCN, bảo vệ lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân”.

2.3. Hoàn thiện các cơ chế pháp lý bảo vệ tốt hơn quyền dân sự của người chưa thành niên, người có khó khăn trong nhận thức, làm chủ hành vi, người mất năng lực hành vi dân sự

 

- Về người chưa thành niên: BLDS năm 2015 quy định cụ thể, có tính khả thi hơn về năng lực hành vi của người chưa thành niên, đặc biệt là trong các quan hệ dân sự liên quan đến bất động sản, động sản phải đăng ký quyền sở hữu, theo đó, Điều 21 quy định: “1. Người chưa thành niên là người chưa đủ mười tám tuổi. 2. Giao dịch dân sự của người chưa đủ sáu tuổi do người đại diện theo pháp luật của người đó xác lập, thực hiện. 3. Người từ đủ sáu tuổi đến chưa đủ mười lăm tuổi khi xác lập, thực hiện giao dịch dân sự phải được người đại diện theo pháp luật đồng ý, trừ giao dịch dân sự phục vụ nhu cầu sinh hoạt hàng ngày phù hợp với lứa tuổi. 4. Người từ đủ mười lăm tuổi đến chưa đủ mười tám tuổi tự mình xác lập, thực hiện giao dịch dân sự, trừ giao dịch dân sự liên quan đến bất động sản, động sản phải đăng ký quyền sở hữu và giao dịch dân sự khác theo quy định của luật phải được người đại diện theo pháp luật đồng ý”.

- Về người có khó khăn trong nhận thức, làm chủ hành vi: đây là quy định mới được bổ sung trong BLDS năm 2015, theo đó, khoản 1 Điều 23 BLDS năm 2015 quy định: “Người do tình trạng thể chất hoặc tinh thần mà không đủ khả năng nhận thức, làm chủ hành vi nhưng chưa đến mức mất năng lực hành vi dân sự thì theo yêu cầu của người này, người có quyền, lợi ích liên quan hoặc cơ quan, tổ chức hữu quan, trên cơ sở kết luận giám định pháp ý tâm thần, Tòa án ra quyết định tuyên bố người này là người có khó khăn trong nhận thức, làm chủ hành vi và chỉ định người giám hộ, xác định quyền, nghĩa vụ của người giám hộ”.

Mục đích của quy định này là để bảo đảm bao quát được các nhóm người yếu thế về năng lực hành vi không thuộc nhóm người chưa thành niên, người mất năng lực hành vi dân sự nhưng do bị khuyết tật hoặc do tình trạng thể chất, tinh thần dẫn tới tình trạng sức khỏe tâm thần không tốt, khả năng nhận thức không đầy đủ, thiếu chính xác, không rõ ràng về hành vi của mình nhưng chưa ở mức mất năng lực hành vi dân sự dẫn tới nhu cầu cần có người giám hộ trong xác lập, thực hiện hành vi pháp lý để có thể tiếp cận được các quyền dân sự của mình (trong xã hội hiện đại, cùng với tỷ lệ người già tăng lên thì cũng kéo theo sự tăng lên về nhu cầu được trợ giúp trong xác lập, thực hiện hành vi pháp lý).

- Về chế định giám hộ: BLDS năm 2015 đã có nhiều sửa đổi, bổ sung nhằm bảo đảm tốt nhất lợi ích của người yếu thế về năng lực hành vi dân sự, cụ thể:

+ Bổ sung quy định về pháp nhân làm người giám hộ (các điều 46, 48 và 50) và việc giám hộ phải được đăng ký tại cơ quan nhà nước có thẩm quyền theo quy định của pháp luật về hộ tịch (Điều 46);

+ Bổ sung quyền, nghĩa vụ và điều kiện của người giám sát việc giám hộ, theo đó khoản 3, 4 Điều 51 quy định: “3. Người giám sát việc giám hộ phải có có năng lực hành vi dân sự đầy đủ nếu là cá nhân, có năng lực pháp luật dân sự phù hợp với việc giám sát nếu là pháp nhân; có điều kiện cần thiết để thực hiện việc giám sát. 4. Người giám sát việc giám hộ có quyền và nghĩa vụ sau đây: a) Theo dõi, kiểm tra người giám hộ trong việc thực hiện giám hộ; b) Xem xét, có ý kiến kịp thời bằng văn bản về việc xác lập, thực hiện giao dịch dân sự quy định tại Điều 59 của Bộ luật này; c) Yêu cầu cơ quan nhà nước có thẩm quyền về giám hộ xem xét thay đổi hoặc chấm dứt việc giám hộ, giám sát việc giám hộ”.

+ Quy định cụ thể hơn về việc cử, chỉ định người giám hộ, giám sát và giải quyết tranh chấp giữa những người giám hộ, theo đó, Điều 54 quy định: “1. Trường hợp người chưa thành niên, người mất năng lực hành vi dân sự không có người giám hộ đương nhiên theo quy định tại Điều 52 và Điều 53 của Bộ luật này thì Uỷ ban nhân dân cấp xã nơi cư trú của người được giám hộ có trách nhiệm cử người giám hộ. Trường hợp có tranh chấp giữa những người giám hộ quy định tại Điều 52 và Điều 53 của Bộ luật này về người giám hộ hoặc tranh chấp về việc cử người giám hộ thì Tòa án chỉ định người giám hộ. Trường hợp cử, chỉ định người giám hộ cho người chưa thành niên từ đủ sáu tuổi trở lên thì phải xem xét nguyện vọng của người này. 2. Việc cử người giám hộ phải được sự đồng ý của người được cử làm người giám hộ. 3. Việc cử người giám hộ phải được lập thành văn bản, trong đó ghi rõ lý do cử người giám hộ, quyền, nghĩa vụ cụ thể của người giám hộ, tình trạng tài sản của người được giám hộ. 4. Trừ trường hợp áp dụng quy định tại khoản 2 Điều 48 của Bộ luật này, người giám hộ của người có khó khăn trong nhận thức, làm chủ hành vi do Tòa án chỉ định trong số những người giám hộ quy định tại Điều 53 của Bộ luật này. Trường hợp không có người giám hộ theo quy định trên, Tòa án chỉ định người giám hộ hoặc đề nghị một pháp nhân thực hiện việc giám hộ”.

+ Sửa đổi, bổ sung quy định về nghĩa vụ của người giám hộ đối với người được giám hộ mất năng lực hành vi dân sự, người có khó khăn trong nhận thức, làm chủ hành vi, theo đó, Điều 57 quy định: “1. Người giám hộ của người mất năng lực hành vi dân sự có các nghĩa vụ sau đây:  a) Chăm sóc, bảo đảm việc điều trị bệnh cho người được giám hộ; b) Đại diện cho người được giám hộ trong các giao dịch dân sự; c) Quản lý tài sản của người được giám hộ; d) Bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của người được giám hộ. 2. Người giám hộ của người có khó khăn trong nhận thức, làm chủ hành vi có nghĩa vụ theo quyết định của Tòa án trong số các nghĩa vụ quy định tại khoản 1 Điều này”.

+ Bổ sung quy định về chấm dứt việc giám hộ phù hợp với quy định của pháp luật về hộ tịch, theo đó, Điều 62 quy định: “1. Việc giám hộ chấm dứt trong trường hợp sau đây: a) Người được giám hộ đã có năng lực hành vi dân sự đầy đủ; b) Người được giám hộ chết; c) Cha, mẹ của người được giám hộ là người chưa thành niên đã có đủ điều kiện để thực hiện quyền, nghĩa vụ của mình; d) Người được giám hộ được nhận làm con nuôi. 2. Thủ tục chấm dứt việc giám hộ thực hiện theo quy định của pháp luật về hộ tịch”.

Văn bản pháp luật khác

x
Tư vấn: luatsunguyenvantong@gmail.com Hotline: 0923 223 756
Dịch vụ: congtyluatnguyenvantong@gmail.com Hotline: 0989 953 716
CÔNG TY LUẬT TNHH NGUYỄN VĂN TÒNG
Về đầu trang
Zalo
Kết nối với chúng tôi 0902 413 940